Thạp đồng Đào Thịnh là một nghi vấn khác – người ta có thể đặt người chết theo phong độ ngồi vào lòng thạp, vì chúng khá lớn. Những tượng cóc chồng lên nhau giao cấu được gắn lên mặt trống đồng, tượng nam nữ giao phối được gắn lên nắp thạp đồng Đào Thịnh.
Nhưng kho mộ chum Sa Huỳnh cho thấy một lối tang ma khác, mà có thể là hai cách: hoặc hỏa thiêu rồi đưa tro hài vào mộ chum, hoặc bốc mộ sau một thời kì rồi xếp xương vào mộ chum. Qua những di vật Đông Sơn, thấy rõ nhất những tín ngưỡng thờ thần dữ, thờ vong hồn và sùng bái sự phồn thực. Thảy vũ khí Đông Sơn cũng cho thấy nó được dùng trong chiến tranh trên sông nước là chính.
Tín ngưỡng phồn thực là kết quả của một từng lớp sinh nhiều nuôi ít và nhu cầu tăng lực lượng cần lao và chiến binh. Đông Sơn có nhẽ chưa có quốc gia, mà cũng lắm chỉ có liên minh các bộ lạc, mỗi bộ lạc có dân số, đất đai, chiến binh riêng ở quy mô nhỏ từ vài trăm đến vài ngàn người.
000 – 2. Dấu vết rõ nhất lại nằm trong hệ ngôn ngữ Nam Á thấy được trong sờ soạng các ngôn ngữ từ Hoa Nam trở xuống Đông Nam Á. Người tiền sử dễ dàng tin vào vạn vật hữu linh, người ta chết là một hành trình quay lại với bản thể hoặc lên thế giới cực lạc bên kia nào đó, hoặc là thế giới vong linh có tác động xấu hay tốt đối với người đang sống.
Người Đông Sơn cách đây hơn 2. Tất cả nói lên khát vọng sinh sôi nảy nở và chung cuộc cụ thể hơn là sùng bái sinh thực khí. Có trồng trọt, thu gom và có nền nông nghiệp là hoàn toàn khác nhau.
Thời đại Đông Sơn đã qua từ lâu nhưng những gì nó để lại cho thấy một nền văn minh rất hoàn chỉnh và có trình độ kỹ thuật đúc kim khí rất cao, cũng như sự phong phú về văn hóa khi dùng phổ quát vật liệu đồng chế tạo đồ vật. Việc xuất hiện nông nghiệp muộn mà vẫn duy trì kinh tế tự nhiên không bộc lộ sự chậm phát triển mà cho thấy sản vật tự nhiên Đông Nam Á thời cổ quá giầu có, không nhất định con người phải canh tác vụ mùa đều đặn.
Tỉ dụ tiêu biểu là người Việt và người Mường, vốn có chung một nguồn cội, nhóm Việt (Kinh) đã đi xuống đồng bằng, phát triển nông nghiệp và nhập khẩu Tam giáo (Nho - Lão - Phật), trong khi người Mường vẫn bán canh tác nông nghiệp và dựa vào kinh tế thiên nhiên với rừng, và chỉ có tín ngưỡng Mo đơn giản. Tuốt luốt các cư dân Đông Nam Á và Nam Trung Hoa đều có can hệ nào đó với trống đồng và với văn minh Đông Sơn cho đến tận hiện tại.
Tang ma là nghi lễ lớn nhất không dành cho cuộc sống mà dành cho cái chết, nhưng qua nó và những đồ vật liên tưởng đến nó, người ta đoán định ra những quan niệm về con người, trời và những gì thuộc về đời sống linh tính.
Buôn làng cộng đồng của người Đông Sơn có thể cũng như vậy, và trên thực tiễn nó được mô phỏng trên hình khắc trống đồng. Trong các thị tộc Đông Sơn, theo những gì được mô phỏng lại, thì nó cũng na ná như buôn làng Tây Nguyên, và làng của người Cà Tu cũng là một loại dấu ấn như vậy.
Quờ các trống đồng đều có hình tượng kim ô dưới dạng ngôi sao từ 12 đến 16 cánh nằm ở trọng tâm, các vòng hoa văn khác đồng tâm bao bọc lấy thái dương và quay ngược chiều kim đồng hồ. Cũng những vòng chim thú hoa văn khác, ắt các vòng tròn được xếp theo ngược chiều kim đồng hồ, điều này cho thấy có thể trống đồng là một loại nhạc khí tang ma, khi cầu hồn, tiễn hồn, người ta đưa hồn về phía ác lặn.
Càng ở cuối thời kỳ Đông Sơn, khí giới càng được trang trí cầu kỳ, rìu được chạm khắc hoa văn, dao găm thì cán là hình người nam hoặc nữ, điều này chứng tỏ chiến tranh đã giảm dần khi vũ khí trở thành vật làm đẹp.
Cho đến tận nửa sau thế kỷ 20, sông ngòi đầm hồ Việt Nam vẫn rất nhiều tôm cá, đất đai ẩm ướt, bất cứ cỏ cây nào cũng dễ dàng sinh trưởng, còn đến đầu thế kỷ 20, chim thú hoang vẫn còn nhiều trong rừng. Nó cho thấy những quan niệm chung và những tính cách riêng hình thành trong quá trình lịch sử khác nhau của một vùng, và sau này thì hồ hết các dân tộc từ Hoa Nam đến Nam Á đều có đặc điểm chung là phát triển nông nghiệp canh tác lúa nước, mặc dầu trống đồng ban sơ không có biểu thị gì của một tầng lớp canh tác lúa nước.
Ở một quan điểm khác, nông nghiệp là bước giật lùi của từng lớp loài người khi nó làm mất tính tự nhiên trong quan hệ với tự nhiên nguyên sơ, làm biến đổi rất nhiều giống nguyên sinh và dẫn loài người đến một thời gian dài phát triển bê trệ. Nhà rông, nhà Gươl, đặc biệt nhà mồ Tây Nguyên, không thiếu những dấu ấn của động vật biển, một ký ức đã đi vào tâm thức của các bộ tộc vốn sống ven biển chuyển lên núi.
Dấu ấn của hai loại kiến trúc này cũng thấy trong quần thể tháp Chàm Po Klong Garai. Đó là cuộc sống của những bộ lạc sống ven biển, một bên là núi rừng, họ đi thuyền độc mộc, săn bắn chim thú và hải sản, có những điệu múa vòng tròn quanh đống lửa bên những căn lều và những ngôi nhà sàn mái cong trong cộng đồng thị tộc. Từ giờ chúng ta ở rìa mái nhà Chúng ta ở trên cao, trên mái nhà Hãy thổi lên, gió của biển cả Đưa chúng tôi lên khỏi mặt đất Hãy chèo đi những con chim có bộ lông óng ánh Những con chim ưng kia hãy nắm vững bơi chèo Cầu vồng là xe của chúng tôi… (Bài ca chiêu hồn của người Toradja ở đảo Célébes, một nghi tiết liên quan đến trống đồng) Con thuyền Việt Khê – ngôi mộ của một chủ nhân Đông Sơn chứng tỏ việc chôn một lần rất phổ quát.
Con người sinh ra rồi đi về đâu, có đời sống sau cái chết hay không là những câu hỏi lớn, chưa bao giờ có lời đáp. Chiến tranh nhỏ xảy ra liên hồi, nhưng hòa bình cũng dễ dàng được thỏa thuận trong cái nền văn hóa trống đồng chung nhất. Những hình khắc thuyền trên thạp đồng Đào Thịnh và trống đồng cho thấy mỗi thuyền là một đội quân, thuyền có cả nhà thuyền và vọng lâu.
Một con thuyền được dùng làm mộ táng với bộ xương người và các đồ vật mang theo là bằng chứng rất quan trọng có tính thực tiễn, nhưng hình ảnh những con thuyền khắc trên trống đồng cũng quan yếu không kém và cho thấy nhiều mặt hơn con thuyền có thật. Hoặc họ đánh từ xa, bắn cung tên, ném lao, hoặc áp sát cận chiến thì dùng dao găm, kiếm ngắn và rìu. Bởi vậy mộ táng là quan yếu, sống sao chết vậy, cái gì của người đã khuất nên để cho anh ta đem theo cùng.
Ở miền Nam tình hình cũng như vậy với người Chàm và các sắc tộc Tây Nguyên, một đằng nhập khẩu Phật giáo và trở thành những tiểu quốc có nền văn hóa cao, trong khi các sắc tộc miền núi vẫn bảo lưu lối sống buôn làng cổ xưa với kinh tế tự nhiên cho đến tận gần đây.
Có nhẽ lúc đó người ta không thể nuôi được tù binh, nên đem những người bị bắt ra tế lễ. Cảnh giết tù binh ngay trên con thuyền rất phổ thông.
Người ta cho rằng cư dân nông nghiệp trồng lúa nước dĩ nhiên phải tôn sùng Mặt Trời, trên thực tế thì bất luận là dân nông nghiệp hay săn bắn, phần đông đều thờ thần ác cả. Đó là những con người – chiến binh, rất tầm vóc, cân đối: nữ quấn khăn đầu, ngực trần và quấn váy, tai đeo những khuyên lớn; nam đóng khố, mình trần, tay đeo vòng như ống che cổ tay dài tới 15 phân, chân đeo vòng thố có những lục lạc lớn, thắt lưng bằng khóa đồng có hình cóc để giắt dao kiếm rất đẹp.
Dữ là nguồn soi rọi, là quyền lực, cảm thức về tuần hoàn ban đầu, cũng được đồng nhất với khái niệm trời – giàng (dương) nói chung. 500 ở Đông Nam Á, nhưng thực ra cho đến tận thế kỷ 19, lối sống đó vẫn còn thấy không ít ở nhiều làng mạc cư dân Đông Nam Á, như là sự duy trì lối sống tự nhiên với cộng đồng làng bản không chuyển sang chế độ phong kiến và cũng không biết gì về sự sở hữu của chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên đời sống thường ngày không phải cái gì cũng tồn tại được, chúng may mắn nếu được biên chép bằng sử sách hoặc vẽ nặn lại bằng điêu khắc và hội họa. Những hình/tượng người trên cán dao găm và đồ trang sức đã cho thấy hình ảnh con người thời đó như thế nào. Trong cái buôn làng này có người giã gạo, đánh trống đồng, nhảy múa, người trong nhà và người dưới đất.
Cung tên, giáo dài, rìu các loại, áo giáp thì chỉ có tấm hộ tâm kính che ngực và vòng chân vòng tay cỡ lớn, vừa trang sức vừa dùng đỡ gươm giáo trong những cuộc đấu áp sát. 000 năm sống trên một địa bàn rộng, có nhẽ từ phía nam Trung Quốc đến các vùng đa đảo ở Indonesia, vào thời đó, vùng này đầm lầy xen kẽ các con sông cổ, mặt đông giáp biển, mặt tây với nhiều khu rừng nguyên sinh trên các dãy núi cao.
Sự khiếp sợ vong hồn là có thật và dẫn đến những tín ngưỡng bỏ mả nguyên sơ, chia của cho người chết. Cư dân Đông Sơn lúc đó chưa có nông nghiệp theo đúng tức thị vụ mùa và chăn nuôi các gia súc căn bản – ngựa, trâu, bò, cừu, dê.
Ở làng của người Cà Tu, tuốt các ngôi nhà đều xếp theo hình ô van, giống như một sân bóng đá, trong đó trọng tâm là nhà Gươl – nhà cộng đồng đẹp nhất, được chạm khắc cầu kỳ. 500 năm, con người hà cớ gì phải làm nông nghiệp, như văn minh Trung Hoa chả hạn, nơi mà dân số quá đông, tỉnh thành cổ phát triển, con người đã thuần hóa được nhiều thú hoang và giống cây trồng cho bốn mùa xuân hạ thu đông, rồi khoanh mình trong một nhà nước phong kiến đầy lễ thức cứng nhắc! Hình ảnh tự do của con người Đông Sơn hoàn toàn xa lạ với mô hình phong kiến như vậy, cộng đồng buôn làng thì chẳng thể trở nên quốc gia tập quyền với quân đội mạnh như các vua phong kiến.
Khi chết đi, con thuyền chính là nấm mồ của họ. Những thuyền này dùng để tiến hành các cuộc đi biển dài và tiến hành chiến tranh với các bộ lạc khác. Đối với các nhà lịch sử và khảo cổ, cuộc sống mới thoát thai từ tình trạng nguyên thủy đó, cách đây từ 3. Hình ảnh những ngôi nhà trên trống đồng với hai loại mái hình thuyền và hình tròn như cái thúng úp hiện có thể thấy ở Indonesia, đặc biệt là ngôi nhà hình thuyền với mái cong đua ra hai phía đầu hồi.
Ngoài những thuyền độc mộc có tính cá nhân chủ nghĩa và gia đình, tức là cỡ nhỏ và vừa, thì có nhẽ người Đông Sơn có những con thuyền rất lớn. Điệu múa đi vòng tròn này cũng được các họa sỹ Indonesia miêu tả lại trong các bức họa tập tục. Người Đông Sơn lúc đó cốt săn bắt chim thú và hải sản, có manh nha chăn nuôi lợn và chó, cũng có lưỡi cày nhưng có nhẽ là lưỡi cuốc thì đúng hơn và cố nhiên chưa có vụ mùa theo sự tuần hoàn của thái dương và Mặt Trăng theo âm dương lịch.
Chúng tôi gọi đó là ngôi nhà cái, còn ngôi nhà mái tròn là ngôi nhà đực. Con thuyền Việt Khê, thạp đồng Đào Thịnh, trống đồng Ngọc Lũ là di vật quan trọng của nền văn minh Đông Sơn, quờ quạng đều liên can đến tang ma cả, buộc chúng ta phải bắt đầu từ đấy. Khi xem tranh của các họa sỹ Indonesia, chúng tôi thấy họ luôn mường tượng về một cuộc sống hoang dã thời kỳ tiền sử như thế nào.
Nhưng tục thờ và đánh trống đồng, đúc trống đồng còn diễn ra cho đến tận thế kỷ 11, và nó chính thức chuyển thành một nhạc khí quan trọng trong lễ thức triều đình và dân gian. Con thuyền Việt Khê với chủ nhân là một người đàn ông khá cao lớn được đặt chôn giữa lòng thuyền, xung quanh đặt những kỷ vật của ông, nói xác thực là gia tài ông mang theo sang thế giới bên kia, gồm nhiều đồ trang sức, rìu, dao, kiếm, thạp - phần lớn đều bằng đồng.
Song nếu nghệ thuật mang tính phô trương và dáng bộ thì sự đoán định sẽ không xác thực.
Cả nam lẫn nữ đều xăm trổ những hình chim thú và giao long. Điệu múa đi vòng tròn quanh nhà mồ, hay cột kut còn lưu lại trong lễ hội và tang ma Tây Nguyên của người Bana và Giarai.
Sự xuất hiện của các trống đồng minh khí (dạng nhỏ chôn theo người chết) cho thấy tín ngưỡng vong linh hình thành khá kiên cố, nhưng nó cũng bắt đầu trình bày sự hoài nghi dẫn đến hình thức chôn của biểu trưng, nghĩa là đồ minh khí, gần giống như đồ thật. Trống đồng với những vòng tròn trang trí là đúc kết của lễ thức vòng tròn đó.
Bài ca chiêu hồn của người Toradja ở đảo Célébes [tên gọi trước đây của đảo Sulawesi, Indonesia] mà chúng tôi dẫn đề từ trên là một khái cảm của những sắc tộc tôn thờ trống đồng. May mắn thay, thời Đông Sơn, người ta chưa nghĩ đến một thứ nghệ thuật thuần túy bay bổng đến như vậy, nó gắn với đạo và gắn với quan niệm tâm linh đương thời, yếu tố gì không có thực thì chính là đời sống huyền thoại sinh ra từ văn minh Đông Sơn mà thôi.
Cuộc sống của con người Đông Sơn là bước đệm điển hình của từng lớp hoang vu tiền sử tiến lên một xã hội có tổ chức cộng đồng làng bản, có những tín ngưỡng riêng, nhưng không hề có một hệ tư tưởng nào chi phối nhất nhất, như các hệ tư tưởng Ấn Độ và Trung Hoa ảnh hưởng đến châu Á.
Một đôi dân tộc phát triển tiếp cận các hệ tư tưởng lớn ở châu Á như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Nho giáo, Đạo giáo chính thức chấm dứt xã hội thị tộc thái cổ.
Trống đồng đã có trong truyền thuyết và sinh hoạt tín ngưỡng của người H’mong, người Dao, người Mường, người Thái, người Choang, người Lê (ở đảo Hải Nam), người Malai, người Indonesia, người Tây Nguyên… và tất nhiên là người Việt.
Thỉnh thoảng khái niệm văn minh cần nhìn lại, và cho đến nay, người ta nhận thấy lối sống của các thổ dân duy trì sự vững bền của con người với thiên nhiên hơn cả, dù rằng hình thức bên ngoài của lối sống ấy bị coi là lạc hậu, thậm chí là mọi rợ, hoang dại. Tín ngưỡng tiền sử Đông Sơn không đến nỗi phức tạp và nó gắn với nhiều sắc tộc Đông Nam Á đến tận hiện tại.
Sau này, những thạp gốm hoa nâu Lý - Trần cũng làm nhiệm vụ y như vậy, cũng có hai chiếc lồng vào nhau như mộ chum Sa Huỳnh, chiếc trong dùng đựng di hình người chết. Tập tục sống trên thuyền vẫn được người Việt chuộng cho đến thế kỷ 17 – 18, theo quan sát của các thương lái phương Tây, nhưng chôn bằng con thuyền quá tốn kém và không còn là tập tục nữa. Người ta cũng làm nhà, và nhà cũng làm dưới dạng một con thuyền lớn, nhưng đa số thời kì họ sống trên những con thuyền độc mộc dài, nay đây mai đó săn bắn và đánh cá.
Đôi khi trong tế lễ, họ cắm những chiếc lông chim dài lên đầu, nên toàn bộ đều cao ngất nghểu, đi lòng vòng đống lửa, đánh trống đồng và múa. Người Đông Sơn được coi là dân đi biển sống ở các khu vực giáp ranh giữa đầm lầy ven biển và rừng rậm, do đó mà săn bắn và dùng thuyền là hai nét đặc trưng dễ thấy trong văn minh Đông Sơn.
Vậy thì cách đây 2. Đông Sơn có thể là thời khắc rút cuộc của các sự phân chia đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét