Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

“Xanh hóa” doanh nghiệp: vui vui Khó nhất từ đâu?.

Song song, vận dụng giải pháp sản xuất sạch hơn bằng cách sắp xếp lại hệ thống dây chuyền sinh sản, loại bỏ một số công đoạn không hợp lý để giảm thiểu tổn thất năng lượng không cấp thiết; chuyển sử dụng nguồn năng lượng hóa thạch sang khí tự nhiên CNG để giảm áp lực cho nguồn cung năng lượng hóa thạch; đầu tư hệ thống cấp nước nóng bằng năng lượng mặt trời… Không dừng lại cải tạo cơ sở vật chất, nhà máy nghiên cứu và dùng những nguyên vật liệu có khả năng phân hủy hoặc tái chế sau khi sử dụng

“Xanh hóa” doanh nghiệp: Khó nhất từ đâu?

Xây dựng lộ trình từ nay đến năm 2020 vận dụng chính sách mua sắm xanh. Trong đó, giao hội ưu tiên doanh nghiệp chuyển đổi theo hướng phát triển xanh. Vì ngay từ đầu họ phải bỏ ra khoản kinh phí không nhỏ để cải tạo hệ thống trang thiết bị sản xuất. MINH XUÂN. # Cấp thiết cũng như hài lòng bỏ ra khoản đầu tư này. 200m3/ngày đêm, bảo đảm nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn loại A.

Đồng thuận với quan điểm trên, tấn sĩ Lê Hoàng Việt, Trưởng phòng kỹ thuật Nhà máy sữa trường sinh, Công ty cổ phần Sữa Vinamilk cho biết, để có thể trở nên nhà máy đạt tiêu chuẩn xanh do tỉnh thành đặt ra nói riêng và đạt được chứng chỉ môi trường của quốc tế, công ty đã xây dựng kế hoạch với lịch trình hơn 10 năm.

Đến năm 2004 nối hoàn thiện lại hệ thống xử lý khí thải lò hơi. Ông Mã Kê Hiền, Phó giám đốc trọng tâm tùng tiệm năng lượng cho rằng, ích thu được từ sản xuất xanh còn có thể nhiều hơn thế.

Ảnh: PHẠM KIM NGÂN  lộ trình sản xuất xanh, cần dài hơi  Theo tấn sĩ Nguyễn Duy Bình, để đạt được đề nghị sản xuất xanh, doanh nghiệp cần phải áp dụng giải pháp kỹ thuật mới, sáng tạo trong thiết kế và cải tiến sản phẩm, chú trọng đến quá trình sản xuất như khuyến khích ứng dụng sinh thái công nghiệp, sản xuất sạch hơn, sản xuất xanh, thiết kế sản phẩm vững bền, đánh giá vòng đời sản phẩm… Việc áp dụng sinh sản xanh chẳng những giúp doanh nghiệp cải thiện hình ảnh của mình trong mắt người tiêu dùng mà quan trọng hơn, doanh nghiệp cũng thu được những lợi ích trực tiếp nhờ tiết giảm phí tổn sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Tuy nhiên, cái khó nhất để xanh hóa một doanh nghiệp chính là sự dè dặt của lãnh đạo doanh nghiệp. Trên thực tại rất ít doanh nghiệp đủ sự tin tưởng. Từ đó xây dựng lộ trình điều chỉnh hiệp để cải thiện hoạt động sinh sản cũng như sản phẩm của mình theo hướng xanh hơn, sạch hơn và phát triển bền vững hơn.

Hệ thống xử lý bụi tại một doanh nghiệp sản xuất ở quận Gò Vấp. Khoản kinh phí này doanh nghiệp có thể được hoàn lại nhờ tiện tặn phí tổn trong quá trình sinh sản nhưng nó chiếm thời kì khá dài. Đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng định, bộ đang khai triển chương trình nhãn xanh Việt Nam với mục tiêu chính là khuyến khích các mẫu hình sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm thân thiện môi trường.

Riêng từ năm 2005 đến nay hoàn thành việc xây dựng hệ thống thu lượm quản lý và chuyển giao chất thải nguy hại; đầu tư thay mới các dây chuyền sinh sản cũ, lạc hậu có năng suất thấp và tiêu tốn nhiều năng lượng bằng các thiết bị công nghệ hiện đại, giúp giảm thiểu chất thải ô nhiễm nảy và thân thiện môi trường.

Điều này diễn đạt xu hướng tất yếu trên thế giới đang tập kết phát triển xanh và nước ta cần phải có sự chuyển đổi để từng bước thích ứng và bắt nhịp cùng khuynh hướng này. Riêng tại TPHCM, để chủ động đón xu thế phát triển mới, đô thị đã nhất tề khai triển nhiều chương trình khuyến khích doanh nghiệp sản xuất xanh như hỗ trợ vốn đầu tư công trình xử lý chất thải; thành lập các quỹ tương trợ vốn cho doanh nghiệp giảm thiểu ô nhiễm; xây dựng mạng lưới chuyên gia sản xuất sạch hơn; ưu tiên tương trợ tham vấn kỹ thuật cho những doanh nghiệp có nhu cầu cải tạo hệ thống trang thiết bị sinh sản để cải tạo hiệu suất dùng năng lượng… Không dừng lại đó, Sở Tài nguyên và Môi trường đã thực hành ký kết liên tịch với các đoàn thể, tổ chức từng lớp đẩy mạnh phong trào bảo vệ môi trường, hưởng ứng các chiến dịch kêu gọi ưu tiên tiêu dùng sản phẩm thân thiện với môi trường như chương trình 3T (tiết giảm, tái chế, tái sử dụng); Tiêu dùng xanh… Vấn đề còn lại là các doanh nghiệp chủ động đến đâu để có thể nắm bắt kịp thời xu thế phát triển mới.

Đây sẽ là tiền đề chuẩn bị cho hoạt động dán nhãn và phổ quát thông báo các sản phẩm thân thiện môi trường đến toàn tầng lớp.

Đơn cử, vào năm 2002, nhà máy xây dựng và đưa vào dùng hệ thống xử lý nước thải với công suất 1.

Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động vận động ưu tiên tiêu dùng sản phẩm xanh trong cộng đồng. Thẳng cánh thay đổi  Theo tấn sĩ Lê Văn Khoa, Đại học Bách khoa TPHCM, không phải tình cờ mà Chính phủ lại chọn đích phát triển nhanh, vững bền.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét