Vua Trần sai cha con Trần Quốc Khang và Trần Kiện đem binh vào tương trợ cho việc trấn giữ Hoan Diễn để cản bước tiến của Toa Đô, thế nhưng Trần Quốc Khang không có tài cầm quân nên thua trận, Trần Kiện thì hèn nhát ra hàng giặc

Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có viết về ông như sau: “Liêu người Nghệ An, tính sáng ý nhớ lâu, đọc sách 10 dòng một lúc”.
Hai người thường xướng họa thơ phú, đàm đạo văn học rất ý hợp tâm đầu; dần dần Trần Quang Khải coi Bạch Liêu là người thân tín, cho ông tham gia bàn việc quân, việc nước.
Một thời kì sau đó ông thiên di ra Bắc, tới sống ở làng Nghĩa Lư, huyện Thanh Tâm, xứ Hải Đông (nay là Hải Dương). Ông là một trường hợp rất đặc biệt trong lịch sử khoa cử và quan trường Việt Nam, đỗ Trạng nguyên nhưng không ra làm quan, không có chức vị, tước phong gì nhưng vẫn là một đại thần. Tháng 3 năm Tân Mùi (1271), triều đình triệu Trần Quang Khải về kinh giữ chức thừa tướng thái úy, coi giữ việc nước.
Nghệ An thời Trần thuộc đất Hoan Diễn, một khu vực quan trọng có vị trí chiến lược như bức tường thành bảo vệ phía Nam Đại Việt.
Trên cơ sở đó Trần Quang Khải điều khiển binh tướng tổ chức đánh trả quyết liệt khiến cho đạo quân của Toa Đô bối rối, sa lầy; chúng buộc phải đóng lại ở một số thành tại Nghệ An, Thanh Hóa rồi chung cục cố sức tiến ra Bắc để thực hiện mưu đồ tạo gọng kìm chiến lược diệt quân chủ lực của ta.
Điền trại, đồn lũy được lập nhiều nơi; sau mấy năm thực hành “biến pháp” Hoan Diễn đã trở thành một vùng đất giàu mạnh. Từ đó mặc dù cách trở đường xa nhưng Trần Quang Khải vẫn bàn thảo thư từ với Bạch Liêu, hỏi ý kiến nhiều việc quan trọng.
Chiêu tập tráng đinh sung vào quân đội, chia làm nhiều phiên thẳng tắp tập luyện võ nghệ, phép đánh trận để khi cần sẽ dùng đến. Tức thị: Sống không nhận quan tước của vua Trần, Chết làm phước thần của làng Nguyễn Xá. Tình hình chiến trường phía Nam vô cùng khó khăn, phức tạp; chính thành thử Trần Quang Khải được cử vào chi viện cho Trần Nhật Duật đang chống giặc ở đây.
Người đỗ Trại Trạng nguyên năm Bính Dần (1266) là Bạch Liêu, quê ở làng Thanh Đàm, xã Nguyễn Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay thuộc Diễn Châu, Nghệ An). Thời Trần có hai khoa thi năm Bính Thìn (1256) và Bính Dần (1266) triều đình lấy hai học vị Trạng nguyên: Kinh Trạng nguyên cho người ở phía Bắc và Trại Trạng nguyên cho người từ Thanh Hóa trở vào.
Truyền rằng Bạch Liêu là người rất sáng ý, tính toán thẳng thắn, đọc sách một lần là nhớ. Hiện nay tại đền thờ ông ở làng Nguyễn Xá, huyện Yên Thành, Nghệ An vẫn còn lưu giữ đôi câu đối: sinh thời bất dĩ Đông A đế, Một vị năng vi Nguyễn Xá thần.
Biết tài của ông, lại thấy nhà Nguyên vẫn chưa chịu từ bỏ tham vọng giật nước ta, năm Đinh Hợi (1287), vua Trần sai Bạch Liêu đi sứ để dò hỏi; khi về nước ông trở lại quê hương dạy học, bốc thuốc chữa bệnh.
Ông cho mời Bạch Liêu vào quân doanh để giúp việc quân, Bạch Liêu đã dâng kế sách đối phó, chỉ rõ tình hình Hoan Diễn, phân tách thế và lực của ta của giặc. Bấy giờ quân Nguyên tiến vào nước ta theo hai hướng khác nhau, hướng thứ nhất do Thoát Hoan chỉ huy từ Bắc đánh xuống, chúng chia làm hai cánh quân và bắt đầu xâm phạm bờ cõi nước ta cuối tháng Giêng năm Ất Dậu (1285).
Lê Thái Dũng. Khuyến khích các vương hầu, quan tướng lập điền trang rồi tuyển mộ dân nghèo, người không có ruộng và đưa gia nhân vào canh tác, khai thác để có thêm lương thực, của cải. Ở những nơi giáp biên cương phải xây dựng các đồn lũy bảo vệ, mặt khác đưa dân đến khai thác, lập ấp, dựng làng để dựa vào nhau, tạo thế ỷ dốc vững mạnh.
Trước khi đi ông đã gặp Bạch Liêu căn dặn tiếp chuyện giúp các quan tướng thực hành “biến pháp” đã định.
Đọc xong Biến pháp tam chương của Bạch Liêu, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải nắc nỏm khen ngợi, sau đó ông cho thi hành ngay.
Nhận thấy rằng để có thể xây dựng Hoan Diễn thành vùng đất trù mật, giàu mạnh tạo thành chỗ dựa cho nhà nước, Bạch Liêu đã suy nghĩ một thời kì để viết ra Biến pháp tam chương , đề xuất ba việc cần làm, đó là: thẩm tra dân số, biên hết vào sổ nhân khẩu.
Khi Bạch Liêu mất, ở Nghĩa Lư cũng như tại quê hương, dân làng đều xây đền thờ phụng; triều đình phong ông làm phước thần, hiệu là Dương cảnh thành hoàng hoàng thượng. Là người có những đóng góp nhất mực vào chiến thắng của cuộc kháng chiến chống giặc nên Bạch Liêu có tên trong danh sách được triều đình định công ban thưởng nhưng ông từ khước mọi tước vị, vật phẩm.
Hướng thứ hai do tướng Toa Đô cầm đầu theo đường thủy vượt biển đánh chiếm Chiêm Thành, tạo bàn đạp từ phía Nam đánh thốc lên. Thế nhưng âm mưu đó hoàn toàn thất bại, từ tháng 4 năm Ất Dậu (1285) quân Đại Việt tổ chức phản công trên khắp chiến trận, để rồi đến đầu tháng 6 cùng năm, quân Nguyên Mông đã bị quét sạch ra khỏi lãnh thổ. Khi ấy, trấn thủ Nghệ An là Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải biết tiếng ông, lại mến tài trọng đức bèn mời Bạch Liêu làm môn khách trong nhà.
Sau khi đỗ Trạng nguyên, Bạch Liêu không ra làm quan mà xin vua cho về quê hương để ở nhà báo hiếu ba má, giúp việc cho thôn ấp. Mặt khác lập các xưởng rèn đúc vũ khí để trang bị cho binh lính. Tiếc rằng tư liệu về Bạch Liêu không có nhiều, chỉ có ít dòng ghi chép trong sách sử, mẩu chuyện và giai thoại dân gian nên chúng ta không rõ nhiều về năm sinh, năm mất, gia thế, sự nghiệp…của ông.
Tranh minh họa. Làm đường thiên lý từ Thanh Hóa vào đến dãy Hoành Sơn, cứ 20 dặm lại lập kho chứa thóc và binh khí. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ II, đất Hoan Diễn được coi là địa bàn chiến lược.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét