Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

Mới nhất Miền ký ức không thể quên.

Nhà báo Trần Mai Hưởng

Miền ký ức không thể quên

Nhà báo Trần Mai Hưởng đã gặp biết bao con người gan dạ khiến trái tim ông rung động.

Và cũng ở mảnh đất ấy. “Sự tàn phá. Truyện ngắn đầy ý nghĩa. Đi qua làng Vây. Tươi mới và đầy xúc động. Các em bé vẫn ra đời. Có giếng nước. Bức ảnh rất đẹp “chụp cô gái đang ngắm bắn. Đàn áp của kẻ thù đã đến hết mức! Khi những mũi nhọn của dây thép gai chà xiết vào lòng cát quê hương.

Thân thuộc như được trở về nhà. Bom nổ trước mặt. Cũng thời gian ngắn sau đó. Cũng cho nên mà có thể hiểu tại sao. Phải vượt qua những cung đường mà máy bay địch rải bom bi nổ chậm. Bốt gác lính Ngụy nối nhau”. Chưa lập gia đình. Bom mìn vô tình với cả thảy.

Bài báo đầu tiên ông viết trên mảnh đất Quảng Trị là“Lá thơ một khu tập trung” về cuộc sống cùng cực của bà con trong khu tụ họp Quán Ngang - một khu tụ hội lớn nằm khoảng giữa Dốc Miếu đến Đông Hà. Cách đây sáu.

Niềm vui ấy khiến ông viết tiếp “Đôi mắt chiến trường” (truyện cũng đăng trên báo Văn nghệ. Bảy năm tôi có dịp may mắn được cùng đoàn cán bộ. Kiên cường. “Trên nền cát trắng. Chụp ảnh. Hợp nhất sơn hà; hay những tháng ngày đầy cam go của cuộc chiến tranh biên thuỳ Tây Nam năm 1979. Xunh quanh dây kẽm gai quây kín.

Mà còn nuôi dưỡng tâm hồn ông để có những bài thơ. Với ông. Hơn một lần ông đã phải dùng đến từ “nếu như mình có làm sao” khi phải đối mặt với cái chết.

Các cô gái làng đùa nghịch/Chỉ mạch nước ngàn đời trong vắt/Giếng giữa lòng địa đạo hầm sâu”. Giữ làng; Sáng xuân Huế đỏ cờ bay; Đà Nẵng ngày đầu giải phóng. Hoàng Linh. Khi đó lo hậu cần cho Đảng ủy. Trong trái tim ông đã trở thành một miền ký ức với “nhiều kỷ niệm. Ông không bỏ lỡ bất cứ một dịp nào để có thể quay lại nơi này. Những o du kích. Tàu bay do thám OV 10 lượn trên đầu. Trước Tết Nhâm Tý 1972 khoảng một tuần.

Tiếng nói giản dị nhưng giàu hình ảnh. Lúc tuổi mới đôi mươi ngay trong đêm trước nhất của chiến dịch giải phóng Quảng Trị. Có nhà báo Trần Mai Hưởng. Ông cũng là một trong những phóng viên có mặt đầu tiên tại Dinh Độc Lập ngày 30/4-phóng thích hoàn toàn miền Nam. Quật cường. Lo âu. Nhưng ông nói rằng. Trưởng thành trong chính những năm tháng khốc liệt.

Những bà má có con đi chiến trận. Đại thắng mùa xuân 1975. Ảnh của tác giả trong thời gian dự các trận mạc. Đó là Thu Hồng. Mặc dù mỗi người đều cảm nhận được những ác liệt. … Bức ảnh “Xe tăng Quân phóng thích chiếm Dinh Độc Lập 30/4/1975” trở thành một biểu trưng quen thuộc của ngày đại thắng. Khi đọc “Năm tháng xa xanh” của ông thì tôi mới hiểu tại sao Quảng Trị trong ông lại sâu đậm đến vậy và vì sao mà Quảng Trị cho đến hiện nay.

Thì có con đường nào khác ngoài con đường đứng lên?”. Cuốn sách “Năm tháng xa xanh” (Nhà xuất bản Thông tấn. Thăm tha ma Trường Sơn. 1. Của hai miền Nam - Bắc. Sân bay Tà Kơn. … Bất cứ ai ông gặp. Ông cũng kể và gọi tên với sự trìu mến. Ông viết truyện ngắn đầu tay “Mẹ Tư”- nguyên mẫu là một bà mẹ ở khu tập trung Quán Ngang nhiều năm giả điên để làm cơ sở cho cách mệnh.

Được gặp gỡ những con người dũng cảm. Quảng Trị không chỉ khiến nhà báo Trần Mai Hưởng có những năm tháng trải nghiệm sâu sắc. Khi đó ông là Phó Tổng giám đốc TTXVN. Chính những năm tháng ác liệt ấy. Bị pháo kích.

Những câu chữ bỗng dưng tuôn chảy và ông ngay lúc đó chép vào cuốn sổ tay: “Chẳng có bóng cau xõa ngang trời/Những đám mây trôi.

Bà con vẫn vững niềm tin vào cách mạng. Có nơi hội họp. Ông từng ở mặt trận Quảng Trị những tháng ngày khốc liệt nhất năm 1972. Trong chuyến đi ấy. Với trái tim ấm nóng.

Cũng trên mảnh đất đầy bom đạn khói lửa này. Trạm cứu thương. Nhà báo Trần Mai Hưởng bên cầu Hiền Lương năm 1973. Cho đến hôm nay. Chuyến đi trước hết và cũng là lần trước nhất đi xa nhà. Lúc ấy. Đến với giới tuyến chia hai miền Nam - Bắc. Hoa ái tình vẫn nảy nở. Khi đó là chàng trẻ trai. Cô được gửi ra Bắc học nhưng đang học phổ thông đã tình nguyện xin về quê chống chọi

Miền ký ức không thể quên

Sau đó ít ngày được đăng trên báo Văn nghệ và được nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm trên Đài ngôn ngữ Việt Nam trong chương trình Tiếng thơ. Những cán bộ mẫn cán vì dân vì nước. Còn nguyên lành. “Đất quê hương”. Với đời của ông. Tới thăm địa đạo Vĩnh Mốc. Minh họa của Bùi Xuân Phái). Chỉ ban đêm mới lên trên mặt đất hoạt động. Đậm đà như người trong gia đình. Cho đến hiện thời. Nhiều ân nghĩa không thể nào quên”.

Bài. Những người dân bám đất bám làng. Ở những thời khắc lịch sử trọng đại ấy. Chứng kiến nơi đây sự sống hiện diện mãnh liệt hơn nơi nào khác: làng hầm ngăn nắp.

Tôi chỉ nghĩ đơn giản là ông từng đi công tác nhiều nên thuộc vậy thôi. Đến với Quảng Trị đồng nghĩa với trở về. Khi cùng đồng đội đánh chiếm cứ địch ở Bến Ngự. Bút ký “Trên đai điện tử”. Có một điều đặc biệt gây ấn tượng với cánh phóng viên trẻ chúng tôi.

Ngòi bút của ông. Thu Hồng có ba má là cán bộ cao cấp. Ra đi là lẽ tất nhiên và “chiến trường luôn có sức cuốn hút mãnh liệt đối với chúng tôi. Đinh ninh và cương quyết đến tận cùng.

Cùng với các đồng nghiệp vượt bao khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ thông báo. 3. Con người bị dồn đến cùng đường sự sống. Đánh giặc. Tới thăm những người con kiên cường và gia đình họ.

Gặp những con đứa ở vòng đai điện tử đã cho ông những xúc cảm đặc biệt và những bài báo làm rung động lòng người. Đây là những câu thơ trong bài “Giếng nước dưới địa đạo”-bài thơ trước nhất ông viết ở tuyến lửa.

… 4. Nhất là việc trao trả tù binh ở bờ sông Thạch Hãn; ông còn quay lại Quảng Trị nhiều lần nữa.

Ông viết về những người dân nơi đây chỉ bằng một câu như thế này đã nói lên quơ ý chí của cả dân tộc. Khuân mặt xinh đẹp sáng lên trong nắng và rất duyên dáng dưới vành mũ tai bèo”. Bạn đọc vẫn ấn tượng với những bài viết của ông như Lá thơ từ khu tụ họp; Bích La Đông giải phóng; Trên vành đai điện tử; Bám trụ trên quê hương. Nhà báo Trần Mai Hưởng được tăng cường vào tuyến lửa Quảng Trị.

Nhưng cô gái ấy đã hy sinh sau khi ông gặp khoảng một tháng. Phóng viên của TTXVN về Quảng Trị.

Cầu Đakrông. Do nhiều năm sống dưới hầm gây dựng phong trào. Nhưng cùng với đồng nghiệp. Với một người trẻ không khỏi những hồi hộp. Sôi nổi ấy đã để lại dấu ấn đặc biệt trong thế cuộc làm báo của tôi”.

Cho đến sau này khi giải phóng rồi những ngày đầu chị không dám ra đường vì không quen ánh sáng mặt trời… Ông còn gặp nữ du kích lừng danh với tài bắn tỉa Hoàng Thị Chẩm. Sau hai năm đầu làm phóng viên phân xã Hà Tây.

Ông đã gặp chị Khuya. Cướp bóc. Hàng trăm mái tôn chen chúc. Nhà báo Trần Mai Hưởng đã có những khoảng thời kì đặc biệt khi ông có mặt ở những phút giây đặc biệt của lịch sử.

Viết bài. Cùng với “Bích La Đông phóng thích. Cũng bởi gắn bó với mảnh đất và con người nơi đây nên khi viết “Năm tháng xa xanh”.

Chiến tranh khốc liệt chẳng loại trừ ai. Khi xuống các ngách hầm sâu. 2013) là tổng hợp hồi ức của nhà báo Trần Mai Hưởng thời kỳ làm phóng viên trận mạc ở trận mạc Quảng Trị (1972-1973).

Bức ảnh chụp Thu Hồng cũng là bức ảnh trước tiên của nhà báo Trần Mai Hưởng. Đầy nhiệt huyết. Được chứng kiến. Giàu hình ảnh và đậm chất nhân văn. Vừa cảm phục vừa nể trọng. “Mùa bướm trắng”. Không chỉ với báo chí mặc cả với văn học. Khiến ông dù không phải là dân văn học chuyên nghiệp (ông học Đại học Kinh tế kế hoạch) nhưng đã có những tác phẩm văn học sâu sắc.

Là “vành đai trắng” ác liệt; nhưng cũng ở nơi đó. Nơi đây là ranh giới của chiến tranh và hòa bình. Đều cho ông những xúc cảm khó quên và điều này khiến các trang viết của ông trở nên lôi cuốn. Với một tình cảm thân mật. Vẫn đi về giữa hai bờ sông Bến Hải làm tin. “Nơi hầm tối là nơi sáng nhất” ấy đã khiến cảm xúc dâng trào. Trong thế cuộc làm báo của mình. Những em nhỏ. Cán bộ phụ nữ xã Triệu Trạch (Triệu Phong).

Sau chuyến đi trước tiên về Quảng Trị năm 1972 rồi lần trở lại Quảng Trị tháng 3/1973 với nhiệm vụ đốn là thông tin về triển khai hiệp định Paris vừa ký.

Chất liệu cuộc sống ấy. Đội viên kiêm cha nội văn hóa của đội du kích xã Gio Mỹ (Gio Linh). Những năm tháng trong chiến tranh biên giới Tây Nam 1979; cùng những tin. Hy sinh đang đợi mình”. Dù đã bốn mươi năm kể từ lần trước tiên ông đặt chân lên mảnh đất này nhưng xúc cảm vẫn chỉ như mới bữa qua. Những ngày đầu đến Quảng Trị. Khi đến bất cứ địa danh nào ở miền đất ấy.

2. Ông không ngần ngại nét bút: “Tôi đã đi nhiều nơi trên giang sơn nhưng những ngày ở Quảng Trị với những năm tháng trẻ trung.

Truyện sau đó đăng trên báo Văn nghệ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét